Phát biểu khai mạc Hội nghị, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng cho biết, với những tính năng nổi bật như độ bền cơ học, độ đàn hồi cao, chịu ma sát tốt, chống ma sát, cháy nổ, ngăn ngừa vi khuẩn… amiăng trắng được được coi là nguyên liệu đầu vào hữu ích cho hơn 3.000 sản phẩm. Loại sợi này được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp sản xuất các sản phẩm từ fibro xi măng, vật liệu cách điện và cách nhiệt, công nghiệp ô tô, công nghiệp hàng không, đóng tàu, dược phẩm, dầu khí và sản xuất vật liệu chịu lực. Tuy nhiên, ở một số nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, có những quan điểm trái chiều về việc tiếp tục cho phép sử dụng amiăng trắng an toàn và có kiểm soát hay cấm sử dụng. Loại sợi này do lo ngại amiăng trắng có khả năng gây ung thư cho con người khi tiếp xúc. Trước thực trạng này, các doanh nghiệp sử dụng sợi amiăng trắng trong sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất tấm lợp fibro xi măng có truyền thống hàng chục năm hoạt động trong tâm trạng lo lắng, sợ hãi. một số.
Trong khi đó, người dân nghèo không đủ tiền mua các vật liệu khác và có ý kiến cho rằng đây là cơ hội để “làm sạch” sản xuất trong nước, tạo điều kiện cho tấm fibro xi măng nhập lậu. Từ thực tế này, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng đề nghị các đại biểu dự hội nghị tập trung thảo luận, đánh giá một cách khoa học, toàn diện về tác động của amiăng trắng. vì sức khỏe con người và môi trường. Trên cơ sở đó, các đại biểu sẽ đề xuất xây dựng các chính sách quản lý, chương trình hành động quốc gia phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội; bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng, người lao động, sản xuất, ổn định chính trị, xã hội và lòng tin của nhân dân vào đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước cũng như cam kết của Việt Nam với quốc gia. thuộc kinh tế. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Hồng Tịnh cho biết, ở Việt Nam, amiăng trắng được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành ứng dụng như sản xuất vật liệu chống ma sát, sản xuất phân bón. lân nung chảy, phân NPK… Sản phẩm có chứa amiăng bao gồm sản phẩm nhập khẩu và sản xuất trong nước. Ông Lê Hồng Tịnh nhấn mạnh, đề xuất cấm sử dụng amiăng trắng ở Việt Nam đến năm 2020 cần được cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở các điều ước quốc tế và pháp luật hiện hành của Việt Nam. Theo đó, các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu đều yêu cầu thông báo, tham vấn và đàm phán trước khi có thể đưa ra bất kỳ thỏa thuận nào. bất kỳ ý định ban hành lệnh cấm nào và phải có bằng chứng khoa học để chứng minh điều đó. Tại khoản 2 Điều 7 Luật Đầu tư số 67/2014 / QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 quy định kinh doanh sản phẩm amiăng trắng là ngành nghề kinh doanh có điều kiện; Điều 32 Nghị định 24a / 2016 / NĐ-CP ngày 05 tháng 4 năm 2016 của Chính phủ về Quản lý vật liệu xây dựng quy định việc cho phép sử dụng có kiểm soát đối với sản phẩm vật liệu xây dựng có sử dụng amiăng trắng. “Việc cấm sử dụng amiăng trắng cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng lợi ích của các bên liên quan và cần có những nghiên cứu cụ thể hơn ở Việt Nam về ảnh hưởng của amiăng trắng để có cách tiếp cận tốt hơn. xử lý đúng, đáp ứng tinh thần của Hiến pháp, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư về ngành, nghề cấm kinh doanh và ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Việc xây dựng lộ trình cấm cũng cần thực hiện đối với từng loại sản phẩm riêng biệt để giúp doanh nghiệp có thời điểm thực hiện chuyển đổi phù hợp với chi phí thấp nhất “, Phó Chủ nhiệm Lê Hồng Tịnh cho biết thêm, theo ông Lê Hồng Tịnh, cần tính đến gánh nặng kinh tế đối với Chính phủ nếu ban hành lệnh cấm sử dụng amiăng trắng trong sản xuất tấm lợp fibro xi măng trong bối cảnh đất nước còn nhiều mặt hàng cần ưu tiên phát triển. Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất các giải pháp sử dụng sợi thay thế, tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy các sản phẩm thay thế chưa đáp ứng được kỳ vọng do tuổi thọ thấp, giá thành cao, không phù hợp với môi trường khí hậu Việt Nam và nhu cầu của “Chính phủ cần chỉ đạo các cơ quan quản lý chuyên ngành tập trung nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học, toàn diện về tác động của amiăng đối với mùn sức khỏe và môi trường, không chỉ trong ngành công nghiệp tấm lợp fibro xi măng. các ngành khác trên cơ sở đó xây dựng chính sách quản lý phù hợp với quy định của quốc tế và Việt Nam, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội để đảm bảo quyền lợi của người lao động. , người sản xuất cũng như người tiêu dùng ”, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Hồng Tịnh nhấn mạnh. Phát biểu tại hội nghị, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi chỉ ra rằng có khá nhiều nghiên cứu từ Nhiều quan điểm và quy mô khác nhau trên thế giới và ở Việt Nam về việc sử dụng amiăng trắng, những nghiên cứu này chưa đưa ra được bằng chứng rõ ràng, chưa thuyết phục được nhóm phản đối việc cấm amiăng trắng đối với bệnh ung thư liên quan đến amiăng ở Việt Nam. Không cần nghiên cứu sâu hơn về bằng chứng ở Việt Nam vì chưa có đủ điều kiện để nghiên cứu toàn diện mà sử dụng bằng chứng quốc tế. gấp lần số quốc gia bị cấm (57 quốc gia cấm hoàn toàn, 145 quốc gia cho phép sử dụng). Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có giải pháp thay thế vật liệu có giá thành, chất lượng tương đương, phù hợp với điều kiện chuyển đổi công nghệ của doanh nghiệp; kể cả khi cấm amiăng, chi phí của chính phủ phải trả cao gấp nhiều lần chi phí mà doanh nghiệp và xã hội phải bỏ ra. Bên cạnh đó, nhu cầu sử dụng vật liệu amiăng là có thực, phù hợp với mức thu nhập của một bộ phận người tiêu dùng nước ta, nhất là phù hợp với điều kiện khí hậu vùng sương muối, bão lũ và vùng biển. . Trên cơ sở những phân tích đó, ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng, việc sử dụng và sản xuất amiăng trắng cần thận trọng, khách quan, không nóng vội, cần xem xét kỹ mặt ưu, nhược điểm của vấn đề cần đánh giá. tác động xã hội đầy đủ và chi phí cho xã hội, nhà nước khi quyết định. Việc loại bỏ amiăng trắng cần được nhìn nhận một cách tổng thể dưới góc độ y tế, sức khỏe và kinh tế, nhưng cũng phải hài hòa khi nhìn từ góc độ nhà đầu tư, sản xuất và những người lao động liên quan. Tuy nhiên, làm việc này phải có lộ trình rõ ràng và có sự chuyển đổi để công khai, các bên cùng đồng thuận tích cực tuyên truyền để người dân hiểu, chia sẻ và thích ứng; đồng thời có đủ thời gian chuẩn bị hồ sơ pháp lý và đủ thời gian để doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và người lao động chuyển đổi. Vì vậy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi nhấn mạnh, các cơ quan, tổ chức liên quan cần ngồi lại với nhau để bàn bạc, tìm ra giải pháp đồng thuận. Trường hợp cần thiết, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Ủy ban Về các vấn đề xã hội tổ chức giám sát chuyên đề để quyết định. Các cơ quan quản lý nhà nước và các hiệp hội, doanh nghiệp, thậm chí chính quyền địa phương phải có báo cáo đầy đủ về vấn đề này. Ông Ngọ Duy Hiểu (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) khẳng định, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và nghiên cứu quốc tế, rõ ràng amiăng là chất gây ung thư cho phổi, thanh quản và buồng trứng. … Theo Tổ chức Y tế Thế giới, khoảng 125 triệu người trên thế giới tiếp xúc với amiăng tại nơi làm việc và khoảng 107.000 người chết hàng năm do các bệnh ung thư liên quan đến amiăng. Với quan điểm “không để người lao động ốm đau, bệnh tật vì môi trường làm việc của chính họ”, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề xuất cấm sử dụng amiăng từ năm 2020 và có lộ trình phù hợp, đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp chuyển đổi, lợi ích của người lao động và người dân bằng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Theo Tin tức / TTXVN
Tổng hợp bởi: https://thanhhieuweb.com